Các nhà khoa học đề xuất công nghệ giảm mùi và giám sát các chất độc hại trong bụi PM 2.5 nhằm giảm tác động của ô nhiễm ở các khu đô thị và khu công nghiệp.
Tại nhóm thảo luận chuyên đề “Công nghệ môi trường” trong khuôn khổ hội thảo quản lý môi trường đô thị và khu công nghiệp diễn ra trực tuyến sáng 15/10, các nhà khoa học đã trình bày nhiều công nghệ có thể ứng dụng trong thực tế.
Trong số này có ThS. Nguyễn Trường Thành (Khoa Môi trường và Tài nguyên, Đại học Cần Thơ) khởi động dự án giảm mùi hôi công nghệ lọc sinh học.
Theo ông Thành, mùi hôi gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người và chất lượng không khí. Mùi hôi là do sự phân hủy của các hợp chất hữu cơ giàu protein từ cá và phế liệu, cũng như ô nhiễm từ sản xuất công nghiệp và nông nghiệp. Công nghệ này có thể xử lý nhiều loại khí có mùi. Bộ lọc sinh học liên kết các khí có mùi trong màng sinh học và được vi sinh vật phân hủy thành các hợp chất đơn giản hơn và ít độc hại hơn.
Nghiên cứu này đánh giá hiệu quả xử lý của 3 loại vật liệu đệm trong hệ thống lọc sinh học gồm vật liệu compost; Ủ bằng than hoạt tính và vật liệu đệm ủ phân dừa.
Nghiên cứu cho thấy, phương pháp lọc sinh học cho hiệu quả khử mùi cao, khoảng 91-98% đối với khí amoniac (NH3), 85-95% đối với khí H2S, 78-100% đối với khí CO2 và khoảng 80% đối với khí CO2. Thời gian bão hòa khác nhau giữa các vật liệu đệm và dao động từ 35-45 phút. Vật liệu mùn bã dừa có thời gian bão hòa lâu hơn và hiệu quả xử lý cao hơn so với hai loại vật liệu đệm còn lại.
So với các công nghệ làm sạch khí thải khác, lọc sinh học có chi phí đầu tư và vận hành thấp, không tạo ra bất kỳ dòng chất thải thứ cấp nào và thân thiện với môi trường. Tuy nhiên, theo ông Thành, công nghệ này cũng có nhược điểm là hiệu quả thấp với nồng độ chất ô nhiễm cao và vật liệu lọc bị lão hóa, có thể gây tắc nghẽn.
Bên trên Công nghệ xử lý bụiAnh Nguyễn Văn Dẫn (Công ty Horiba Việt Nam) cho biết, công ty anh phát triển thiết bị PX-375 để đo nồng độ bụi PM 2.5 trong không khí. Công nghệ này có thể giám sát liên tục một số chất ô nhiễm trong bụi PM 2.5 và phân tích hàm lượng các thành phần trong thời gian ngắn để đo nhanh và cảnh báo ngay lập tức.
Để chứng minh điều này, ông đã so sánh dữ liệu quan trắc tự động (PX-375) và phân tích truyền thống (ICP-MS) sử dụng các thông số titan do Bộ Môi trường Nhật Bản công bố. Theo đó, công nghệ này đã nhận thấy sự gia tăng nồng độ titan trong một khoảng thời gian ngắn.
Công nghệ này có thể được ứng dụng trong nghiên cứu lập bản đồ nguồn, giám sát liên tục ô nhiễm khói mù xuyên biên giới, cháy rừng và giám sát liên tục một số nguyên tố PM 2.5 trong hệ thống giám sát chất lượng không khí.
Thiết bị đặt PX-375 trong công nghệ giám sát liên tục một số chất độc hại trong bụi PM 2.5.
ThS Trần Trung Kiên, Viện Môi trường và Tài nguyên, trình bày về ứng dụng công nghệ phân tích dòng nguyên liệu (MFA) để đánh giá khả năng tuần hoàn các dòng nitơ (N). Mục tiêu công nghệ này là sử dụng ứng dụng mô hình sinh thái khép kín để nuôi cá tra thâm canh ở Đồng bằng sông Cửu Long. Mô hình đề xuất nhằm mục đích tối ưu hóa lượng phát thải N từ các hoạt động nuôi cá tra thâm canh trên cơ sở dòng nguyên liệu, chất thải và năng lượng khép kín.
Ông Kiên cho biết mô hình được áp dụng cho Trang trại chăn nuôi Trần Trung Nhân ở Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp với 6 hệ thống phụ (ao cá, ủ phân, lúa nước, chăn nuôi, ủ đạm thủy phân, mương tưới). Trong mô hình tích hợp, các hệ thống này nên tương tác và sử dụng nguồn N từ ao cá tra làm nguồn dinh dưỡng chính cho hệ thống.
Kết quả cho thấy toàn bộ lượng N đầu vào chủ yếu đến từ hàm lượng thức ăn và nguồn nước cung cấp được thay hàng ngày với lượng 20% lượng nước ao nuôi. Có 3 nguồn phát thải N chính là bùn thải, nước thải và dung dịch đạm – chúng được tuần hoàn trong mô hình để hạn chế thất thoát, đây cũng là mục đích chính của nghiên cứu. Tổng N từ bùn thải được trộn với các chất thải khác trong hệ thống để làm phân compost phục vụ nông nghiệp, nước thải ao nuôi cá tra sau khi xử lý nước được cung cấp cho các hoạt động nông nghiệp Trong nông nghiệp có thể dùng phân bón bổ sung vào đất ở những vùng bị phèn cải tạo hoặc chất dinh dưỡng trơ.
Một số đề xuất công nghệ tái chế chất thải nhựa và xử lý nước thải công nghiệp cũng được các nhà khoa học đưa ra tại hội thảo. ThS Trần Lê Lựu, Trường Đại học Việt Đức, đề xuất nghiên cứu xử lý nước rỉ rác sau sinh học bằng phương pháp Fenton điện hóa.
Theo ông Lưu, ước tính có khoảng 2,2 nghìn tỷ chất thải đô thị trên toàn thế giới sẽ được tạo ra vào năm 2025. Khi chôn lấp, quá trình phân hủy sinh hóa giúp giảm lượng chất thải rắn, tuy nhiên việc hình thành nước rỉ rác có ảnh hưởng xấu đến môi trường nên phải xử lý trước khi thải ra môi trường.
Nhóm đã tiến hành thử nghiệm nước rỉ rác thu gom từ một bãi chôn lấp hợp vệ sinh do Hiệp hội Xử lý chất thải Nam Bình Dương làm chủ đầu tư để phân tích hiệu quả xử lý ô nhiễm, bao gồm cả khả năng loại bỏ nhu cầu ôxy) …
Quy trình Fenton điện hóa được coi là thân thiện với môi trường, rẻ tiền, sử dụng linh hoạt và giúp xử lý nước thải khó phân hủy hóa học từ ngành công nghiệp hóa chất có hàm lượng COD cao.
Như Quỳnh